Bản tin tháng TV2
Báo cáo mới nhất của IEA hỗ trợ các quốc gia hiện thực hóa mục tiêu năng lượng tái tạo tại Hội nghị thượng đỉnh COP28
24/06/2024 13:45
- 2444 lần đọc
Hội nghị thượng đỉnh COP28 về biến đổi khí hậu khép lại vào cuối năm 2023 cùng với tinh thần đoàn kết và cam kết mạnh mẽ từ gần 200 quốc gia trên toàn cầu, với các điểm nhấn nổi bật là sự đồng thuận cao về việc tăng gấp ba công suất năng lượng tái tạo (NLTT) toàn cầu vào năm 2030. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, các quốc gia vẫn còn một chặng đường phía trước. Báo cáo mới nhất của IEA, “COP28 Tripling Renewable Capacity Pledge: Tracking Countries’ Ambitions and Identifying Policies to Bridge the Gap,” cung cấp một phân tích toàn diện về tình trạng hiện tại và theo dõi việc thực hiện cam kết của các nước

Hình 1. Các nhà lãnh đạo tham dự Hội nghị COP28 tại UAE. (Nguồn: IEA)

Những đóng góp do quốc gia tự quyết định có thể tạo ra con đường rõ ràng để tăng gấp ba công suất NLTT toàn cầu

Các chính phủ đã đề ra những mục tiêu toàn cầu chính cho năm 2030, bao gồm: tăng gấp ba lần công suất NLTT; cải thiện gấp đôi hiệu quả năng lượng; giảm đáng kể phát thải methane; và tăng tốc quá trình chuyển đổi công bằng khỏi các nguồn nhiên liệu hóa thạch.

Hiện nay, các quốc gia đang chuẩn bị cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (Nationally Determined Contributions - NDC) theo Hiệp định Paris. Năm tới, các quốc gia dự kiến sẽ nộp NDC mới. Các kế hoạch hành động về khí hậu này sẽ bao gồm các tham vọng được điều chỉnh lại cho năm 2030 và các mục tiêu mới cho năm 2035 - cung cấp cơ hội quan trọng cho các quốc gia để đưa ra những cam kết rõ ràng hoặc tăng cường tham vọng của họ để thực hiện đầy đủ các cam kết toàn cầu được đưa ra tại COP28.

Đây là thời điểm quan trọng để các quốc gia đánh giá tham vọng về năng lượng tái tạo của họ và cập nhật NDC. Phân tích của IEA chỉ ra rằng việc tăng gấp ba lần công suất NLTT toàn cầu vào năm 2030 là một mục tiêu tham vọng nhưng có thể đạt được, do thực tế triển khai hàng năm vẫn liên tục lập kỷ lục, đà tăng trưởng đáng kể trong khu vực và sự cạnh tranh ngày càng tăng so với nhiên liệu hóa thạch - đặc biệt là đối với điện mặt trời và điện gió.

Báo cáo của IEA cũng nhấn mạnh những gì cần thiết để đạt được điều đó, cố gắng trả lời bốn câu hỏi chính:

1) Công suất NLTT được phản ánh như thế nào trong các NDC và trong các tham vọng, thông báo và kế hoạch của các quốc gia?

2) Các quốc gia có đang trên đà đạt được những tham vọng này không?

3) Những tham vọng này được đo lường như thế nào so với cam kết COP28 về việc tăng gấp ba lần công suất NLTT toàn cầu vào năm 2030?

4) Những ưu tiên chính sách liên quan là gì để khắc phục các khoảng cách trong cả thực hiện và tham vọng?

Chỉ có một số ít quốc gia đưa ra những mục tiêu rõ ràng về năng lực tái tạo

Trong số 194 Đóng góp do quốc gia tự quyết định (Nationally Determined Contributions - NDC) được đệ trình, chỉ có 14 quốc gia đưa ra cam kết rõ ràng về tổng công suất NLTT vào năm 2030. Tổng công suất được cam kết trong các NDC này chỉ đạt 1.300 GW, tương đương 12% so với mục tiêu 11.000 GW. Nổi bật trong số các quốc gia đã cam kết là Trung Quốc với mục tiêu 1.200 GW điện mặt trời và gió, chiếm hơn 90% tổng công suất được đề cập trong NDC.

Hình 2. Đánh giá mục tiêu về NLTT trong NDC (Nguồn: IEA)

Tham vọng của quốc gia so với cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định

Phân tích các chính sách, kế hoạch và ước tính hiện có của gần 150 quốc gia, IEA dự đoán rằng nếu các quốc gia hiện thực hóa đầy đủ mục tiêu quốc gia, tổng công suất NLTT lắp đặt toàn cầu có thể đạt 8.000 GW vào năm 2030.

Hình 3. Mục tiêu về NLTT toàn cầu vào năm 2030 theo số lượng quốc gia (trái) và theo công suất (phải) (Nguồn: IEA)

Năng lượng mặt trời và năng lượng gió tiếp tục chiếm ưu thế trong mục tiêu quốc gia, trong khi thủy điện, năng lượng sinh học và các nguồn NLTT khác có xu hướng bị “bỏ qua”. Dự kiến nếu các quốc gia đạt được mục tiêu đề ra, công suất lắp đặt của điện mặt trời sẽ vượt qua thủy điện, vốn là nguồn cung cấp NLTT lớn nhất thế giới vào năm 2022.

NLTT biến đổi chiếm phần lớn công suất được các chính phủ xác định rõ, với điện mặt trời quang điện chiếm 50%, tiếp theo là năng lượng gió 26%. Trong khi hơn 60 quốc gia đã công bố ý định lắp đặt các nguồn NLTT biến đổi, chỉ có 47 quốc gia xác định mục tiêu cho thủy điện. Đối với các loại NLTT khác, như sinh khối, địa nhiệt, năng lượng mặt trời tập trung (CSP) và công nghệ đại dương, con số này còn thấp hơn nhiều.

Mức độ tham vọng hiện tại khác biệt rất lớn giữa các quốc gia

Gần một nửa số quốc gia được phân tích sẽ gấp đôi tổng công suất NLTT lắp đặt vào năm 2030, nhưng một số quốc gia định tăng tốc nhanh hơn. Nếu đạt được tất cả các tham vọng, công suất điện năng tái tạo lắp đặt toàn cầu vào năm 2030 sẽ gấp 2,2 lần so với năm 2022. Gần 30 quốc gia nhằm mục tiêu tăng gấp hai đến ba lần công suất tái tạo của họ vào năm 2030, chiếm gần ba phần tư tham vọng toàn cầu, do Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Đức và Tây Ban Nha dẫn đầu.

Hình 4. Công suất NLTT năm 2022 và khoảng cách đến mục tiêu năm 2030 (Nguồn: IEA)

Quy mô và tốc độ mở rộng công suất điện năng tái tạo của Trung Quốc sẽ rất quan trọng đối với nhịp độ chung của triển khai toàn cầu cho đến năm 2030. Trung Quốc chưa công bố một mục tiêu 2030 rõ ràng cho tổng công suất điện năng tái tạo. Tuy nhiên, quốc gia này dự kiến sẽ vượt qua mục tiêu 2030 của mình là 1.200 GW công suất điện mặt trời và điện gió vào năm nay. Ước tính của IEA dựa trên các xu hướng triển khai mới nhất cho thấy công suất ở Trung Quốc vào năm 2030 sẽ gấp 2,5 lần so với năm 2022.

Các chính sách và kế hoạch hiện tại ở các nền kinh tế tiên tiến cho thấy công suất tái tạo gần như gấp đôi vào năm 2030. Điều này do các nước châu Âu dẫn đầu, họ đóng góp 1/5 tổng tham vọng toàn cầu. Các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu chiếm hơn 80% đóng góp của khu vực, chủ yếu dựa trên các kế hoạch quốc gia về năng lượng và khí hậu của họ (NECP). Cùng nhau, Hoa Kỳ và Canada có tham vọng lắp đặt gần 1.000 GW công suất tái tạo vào năm 2030, tương ứng 13% tham vọng toàn cầu.

Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, không bao gồm Trung Quốc, cũng hiện đang lên kế hoạch tăng gấp đôi công suất NLTT. Ở Mỹ La-tinh, nơi năng lượng tái tạo đã chiếm hơn 60% sản lượng điện của khu vực do việc sử dụng lâu đời của thủy điện, tổng tham vọng của quốc gia tương ứng với tăng 1,3 lần công suất vào năm 2030. Riêng Brazil chịu trách nhiệm cho hơn một nửa tổng tham vọng của khu vực. Khu vực châu Phi hạ Sahara và Liên bang Nga đặt mục tiêu công suất NLTT lắp đặt lần lượt là tăng 3,2 và 1,3 lần so với mức hiện nay. Khu vực Trung Đông và Bắc Phi cho thấy yếu tố tăng trưởng cao nhất dựa trên các tham vọng của họ - tăng 4,5 lần so với cơ sở hiện tại của họ, do Saudi Arabia, Ai Cập và Algeria dẫn đầu.

Để đạt được mục tiêu, hầu hết các quốc gia cần tăng tốc thực hiện

NLTT toàn cầu đã đạt gần 560 GW vào năm 2023, tăng 64% so với năm 2022, mức tăng chưa từng có. Đây phù hợp với nhịp độ hàng năm cần thiết để đạt khoảng 8.000 GW công suất lắp đặt vào năm 2030, tổng số này phù hợp với chính sách, kế hoạch và ước tính hiện tại của các quốc gia.

Gần 50 quốc gia đang trên đường đạt hoặc vượt quá các kế hoạch hiện tại của họ - mặc dù Trung Quốc là đóng góp lớn nhất. Vào năm 2023, Trung Quốc đã lắp đặt gần 350 GW công suất NLTT mới, chiếm hơn một nửa tổng số toàn cầu. Nếu duy trì được nhịp độ này, họ có thể vượt xa tham vọng hiện tại của mình vào năm 2030. Tuy nhiên, ngoài Trung Quốc, phần còn lại của thế giới sẽ cần phải tăng tốc trung bình hàng năm lên 36% trong phần còn lại của thập kỷ để đạt được mục tiêu đề ra.

Để đáp ứng những mục tiêu quốc gia và phân bổ tiến bộ rộng rãi hơn, tốc độ triển khai cần phải tăng tốc ở hầu hết các khu vực và quốc gia lớn - bao gồm Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và Ấn Độ. Việc mở rộng quy mô triển khai lớn cũng cần thiết ở Đông Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi, cũng như châu Phi hạ Sahara.

Các tham vọng tích lũy của các quốc gia hiện tại không còn phù hợp với mục tiêu mới

Thậm chí nếu tất cả các quốc gia triển khai đầy đủ các tham vọng hiện tại của họ, thế giới vẫn sẽ thiếu 30% so với việc nhân ba lần công suất NLTT  toàn cầu vào năm 2030. Các tham vọng hiện tại của các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế mới nổi không còn phù hợp với cam kết COP28. Đối với các nền kinh tế phát triển, mức độ tham vọng cần tăng từ 1,9 lên 2,5 lần. Đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, yếu tố tăng trưởng nên tăng từ 2,4 lên 3,4 lần.

Các quốc gia cần áp dụng các chính sách hỗ trợ để vượt qua những khoảng cách về tham vọng và thực hiện.

Chi phí ngày càng được cải thiện của NLTT so với nhiên liệu hóa thạch thể hiện vai trò trong việc tăng tốc triển khai. Kể từ năm 2015, khi Hiệp định Paris được ký kết, các bổ sung năng lực NLTT toàn cầu đã tăng gấp ba lần. Điều này chủ yếu là do sự hỗ trợ chính sách trên 140 quốc gia, các quy mô kinh tế và tiến bộ công nghệ. Các yếu tố này đã giúp giảm chi phí của điện gió và điện mặt trời tới 40%. Các chính sách được thiết kế tốt nhằm giải quyết những thách thức hiện tại của NLTT có thể thúc đẩy triển khai thêm nữa - vượt qua những khoảng cách hiện tại và khuyến khích các quốc gia tiếp tục tăng cường tham vọng trong những năm tới.

Mặc dù tất cả các quốc gia sẽ lựa chọn các lộ trình chính sách riêng dựa trên tình hình cụ thể của từng quốc gia, báo cáo của IEA đề xuất các ưu tiên có thể áp dụng cho các nhóm quốc gia có những nhóm thách thức chung. Những thách thức này bao gồm thời gian chờ đợi lâu để được cấp phép, sự đầu tư không đủ vào cơ sở hạ tầng lưới điện, nhu cầu tích hợp nhanh chóng và có hiệu quả chi phí các nguồn NLTT biến đổi, và chi phí tài chính cao.

Báo cáo của IEA nêu những đề xuất về các hành động nhắm mục tiêu mà các nhóm quốc gia có thể thực hiện để giải quyết những rào cản này. Ví dụ, để đơn giản hóa quy trình cấp phép, IEA khuyến nghị đơn giản hóa các quy tắc, quy trình và cơ cấu hành chính; đảm bảo các bộ phận liên quan được trang bị đủ nhân lực và có các kỹ năng phù hợp… Về việc tăng tốc độ tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo biến đổi, các khuyến nghị bao gồm khuyến khích tăng độ linh hoạt của hệ thống điện; phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng; và khai thác ứng dụng số hóa để tạo điều kiện cho việc điều độ tốt hơn. Và về việc giảm chi phí tài chính để cải thiện tính khả thi về tín dụng của các dự án, IEA đề xuất đưa ra hoặc mở rộng tính ổn định lâu dài của chính sách; hỗ trợ các dự án ở giai đoạn trước phát triển; giảm rủi ro về giá cả, lạm phát và tỷ giá; giảm rủi ro cho các bên mua lại trong khi vẫn bảo đảm tính phù hợp về giá cả cho người tiêu dùng.

Thực hiện: Hoàng Bảo

Tham khảo:

COP28 Tripling Renewable Capacity Pledge: Tracking Countries’ Ambitions and Identifying Policies to Bridge the Gap, International Energy Agency, June 2024. 

Copyright © 2017 Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 2